Giá ngũ cốc biến động không đồng đều nhưng chủ yếu tăng cao hơn vào phiên cuối tuần nhờ một số hoạt động mua kỹ thuật sau khi báo cáo Ước tính Cung cầu Nông nghiệp Thế giới (WASDE) được công bố.
Giá đậu nành kỳ hạn tháng 05 chốt phiên giao dịch ngày 08/3 tăng 17,75 cent, ở mức 1.184 cent/bushel, giảm 1,0 cent so với mức cao nhất và tăng 30,25 cent so với mức thấp nhất. Giá đậu nành kỳ hạn tháng 07 chốt phiên tăng 19,50 cent, ở mức 1.195,50 cent/bushel, tăng 30,75 cent so với mức thấp nhất và giảm 0,75 cent so với mức cao nhất.
Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 05 chốt phiên tăng 7,0 usd, ở mức 341,40 usd/short tấn, giảm 1,0 usd so mức cao nhất và tăng 10,50 usd so với mức thấp nhất.
Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 05 chốt phiên giảm 0,18 cent, ở mức 46,17 cent/pound, giảm 0,76 cent so với mức cao nhất và tăng 1,16 cent so với mức thấp nhất.
Bộ NN Mỹ không thay đổi ước tính về nguồn cung và sử dụng đậu nành so với báo cáo trong tháng 2. Tồn trữ cuối kỳ ổn định ở mức 315 triệu giạ, thấp hơn một chút so với dự đoán thương mại trung bình là 319 triệu giạ. Tổng sản lượng không thay đổi ở mức 4,165 tỷ giạ trong năm 2023-24.
Tồn trữ cuối kỳ trên toàn cầu giảm từ 4,263 tỷ giạ trong tháng 2 xuống còn 4,198 tỷ giạ trong tháng này, bằng với kỳ vọng của các nhà phân tích.
Bộ NN Mỹ cũng cắt giảm ước tính sản lượng đậu nành của Brazil xuống 1 triệu tấn, còn 155 triệu tấn, nằm trong mức cao nhất của các ước tính thương mại trước báo cáo. Sản lượng của Argentina không thay đổi, ở mức 50 triệu tấn.
Bắp
Bộ NN Mỹ cũng không có thay đổi nào đối với ước tính tồn trữ cuối kỳ so với báo cáo trong tháng 2, giữ nguyên mức 2,172 tỷ giạ. Tổng sản lượng bắp của Hoa Kỳ vụ 2023-24 cũng được giữ nguyên ở mức 15,342 tỷ giạ.
Sản lượng bắp toàn cầu năm 2023/24 giảm xuống còn 1.230,24 triệu tấn, thấp hơn một chút so với dự đoán thương mại trung bình. Sự sụt giảm được ghi nhận ở Nam Phi, Ukraine, Mexico, Venezuela và Nga.
Sản lượng bắp của Brazil ước tính đạt 124 triệu tấn và xuất khẩu là 52 triệu tấn. Sản lượng của Argentina tăng 1 triệu tấn, lên 56 triệu tấn và khối lượng xuất khẩu tăng 1 triệu tấn lên 42 triệu tấn. Sản lượng của Ukraine giảm 1 triệu tấn xuống 29,5 triệu tấn nhưng xuất khẩu tăng 1,5 triệu tấn lên 24,5 triệu tấn.
Lúa mì
Các nhà xuất khẩu tư nhân cho biết lô hàng xuất bán 110.000 tấn lúa mì vụ Đông đỏ mềm cho Trung Quốc, giao hàng trong năm tiếp thị 2023/2024, đã bị hủy.
Tồn trữ lúa mì cuối kỳ tăng nhẹ từ 658 triệu giạ trong tháng 2 lên 673 triệu giạ, ngược lại với kỳ vọng của các nhà phân tích. Điều đó khiến tồn trữ cuối kỳ cao hơn 18% so với cùng kỳ năm trước.
Trên toàn cầu, tồn trữ cuối kỳ giảm từ 9,532 tỷ giạ trong tháng 2 xuống 9,509 tỷ giạ trong tháng 3. Con số này thấp hơn một chút so với dự đoán thương mại trung bình là 9,520 tỷ giạ.
Ước tính sản lượng lúa mì thế giới đạt 786,70 triệu tấn, tăng từ mức 785,74 triệu tấn trong tháng 2. Theo đó, sản lượng lúa mì của Australia tăng lên 26 triệu tấn, từ mức 25,5 triệu tấn vào tháng trước. Sản lượng lúa mì của Nga ước tính đạt 91,5 triệu tấn, tăng so với 91 triệu tấn vào tháng trước.
Xuất khẩu lúa mì của Nga không thay đổi so với tháng trước, ở mức 51 triệu tấn. Ước tính xuất khẩu lúa mì của Ukraine cao hơn một chút, ở mức 16 triệu tấn, tăng từ mức 15 triệu tấn vào tháng trước. Xuất khẩu lúa mì của Australia cũng tăng nhẹ từ 19,5 triệu tấn lên 20 triệu tấn trong tháng 3.
Chi tiết báo cáo tháng 3: tại đây
NGUỒN : CBOT