Bộ NN Mỹ công bố báo cáo ước tính gieo trồng của bắp, đậu nành và lúa mì cho mùa vụ 2024. Tuy có một số thay đổi về diện tích giữa ba loại cây trồng này, nhưng năng suất và tiềm năng sản lượng cao khiến lượng tồn trữ vốn đã dồi dào có khả năng sẽ còn tăng cao hơn nữa. Điều này đủ để kích hoạt một đợt bán kỹ thuật khác khiến giá bắp, đậu nành và lúa mì đều giảm.
Giá đậu nành kỳ hạn tháng 03 chốt phiên giao dịch ngày 15/2 giảm 8,25 cent, ở mức 1.162,25 cent/bushel, giảm 12,50 cent so với mức cao nhất và tăng 2,0 cent so với mức thấp nhất. Giá đậu nành kỳ hạn tháng 05 chốt phiên giảm 10,25 cent, ở mức 1.166 cent/bushel, tăng 1,75 cent so với mức thấp nhất và giảm 13,50 cent so với mức cao nhất.
Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 03 chốt phiên giảm 3,80 usd, ở mức 339,50 usd/short tấn, giảm 6,90 usd so mức cao nhất và tăng 0,50 usd so với mức thấp nhất.
Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 03 chốt phiên giảm 0,35 cent, ở mức 46 cent/pound, giảm 0,34 cent so với mức cao nhất và tăng 0,44 cent so với mức thấp nhất.
Bộ NN Mỹ dự kiến diện tích gieo trồng đậu nành sẽ đạt 87,5 triệu mẫu Anh, cao hơn 3,9 triệu mẫu so với năm 2023 và bằng với diện tích gieo trồng năm 2022. Năng suất trung bình được dự báo là 52 giạ/mẫu Anh, tương ứng với tổng sản lượng là 4,505 tỷ giạ (122,61 triệu tấn). Xuất khẩu trong năm 2024/25 có thể tăng 155 triệu giạ, đạt mức 1,875 tỷ giạ (51,03 triệu tấn). Công suất ép dầu đậu nành tiếp tục tăng, với mức ép dầu dự kiến cao kỷ lục là 2,4 tỷ giạ (65,32 triệu tấn) vào năm 2024/25.
Trong tuần kết thúc vào ngày 08/2, lượng xuất khẩu đậu nành tăng 13 triệu giạ (353.800 tấn) cho năm 2023-2024 và tăng 0,9 triệu giạ (24.000 tấn) cho năm 2024-2025. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 53,4 triệu giạ, cao hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 1,720 tỷ giạ của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất bán đậu nành hiện đạt tổng cộng 1,426 tỷ giạ cho năm 2023-2024 và giảm 19% so với một năm trước.
Lượng xuất khẩu khô dầu đậu nành hàng tuần được báo cáo ở mức 203.400 tấn cho năm 2023-2024 và 500 tấn cho năm 2024-2025.
Bắp
Giá bắp giảm sau khi dự báo sản lượng bắp của Mỹ sẽ đạt 15,040 tỷ giạ (382 triệu tấn) trong vụ mùa hiện tại khi diện tích gieo trồng ở mức 91 triệu mẫu Anh, ít hơn 3,6 triệu mẫu Anh so với năm 2023, nhưng năng suất trung bình ước tính ở mức 181 giạ trên mỗi mẫu Anh. Xuất khẩu được dự báo đạt 2,150 tỷ giạ (54,61 triệu tấn) vào năm 2024/25.
Trong tuần kết thúc vào ngày 08/2, lượng xuất khẩu bắp tăng 51,5 triệu giạ (1.306.900 tấn) cho năm 2023-2024 và tăng 0,1 triệu giạ (2.300 tấn) cho năm 2024-2025. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 35,6 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 2,1 tỷ giạ của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu bắp hiện đạt tổng cộng 1,426 tỷ giạ cho năm 2023-2024 và tăng 30% so với một năm trước.
Sản lượng ethanol tăng 50.000 thùng/ngày lên mức 1,083 triệu thùng/ngày trong tuần kết thúc vào ngày 09/2. Tồn trữ ethanol giảm 1,03 triệu thùng, xuống 25,81 triệu thùng.
Michael Cordonnier cắt giảm ước tính sản lượng bắp của Brazil thêm 3 triệu tấn và cắt giảm sản lượng bắp của Argentina từ 56 triệu tấn xuống còn 54 triệu tấn.
Lúa mì
Giá lúa mì giảm theo giá bắp và đậu nành sau một đợt bán kỹ thuật.
Bộ NN Mỹ dự kiến diện tích gieo trồng toàn bộ các loại lúa mì sẽ đạt 47,0 triệu mẫu Anh, giảm 2,6 triệu mẫu so với cùng kỳ năm trước. Năng suất trung bình được dự báo là 49,5 giạ/mẫu Anh, và tổng sản lượng tương ứng là 1,900 tỷ giạ (51,71 triệu tấn).
Trong tuần kết thúc vào ngày 08/2, lượng xuất khẩu lúa mì tăng 12,8 triệu giạ (349.300 tấn) cho năm 2023-2024 và tăng 1,8 triệu giạ (48.000 tấn) cho năm 2024-2025. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 14,9 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 725 triệu giạ của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu lúa mì hiện đạt tổng cộng 647 triệu giạ cho năm 2023-2024 và tăng 7% so với một năm trước.
Nhật Bản đã thầu mua 4,2 triệu giạ lúa mì chất lượng thực phẩm từ Hoa Kỳ, Canada và Úc. Trong đó, 48% có nguồn gốc từ Mỹ. Hàng sẽ được vận chuyển vào cuối tháng 3.
SovEcon nâng ước tính sản lượng lúa mì năm 2024/2025 của Nga thêm 1,4 triệu tấn, lên 93,6 triệu tấn. Thuế xuất khẩu của Nga đã tăng 11,8%, lên mức 4.058,9 rúp/tấn.
Nguồn: CBOT