Sau nhiều phiên giảm liên tiếp trong tuần thì đà giảm của giá ngũ cốc cuối cùng cũng dừng lại vào thứ Sáu do có lực mua tốt khi giá đã giảm xuống mức thấp.
Giá đậu nành kỳ hạn tháng 01/2025 chốt phiên giao dịch ngày 15/11 tăng 11,0 cent, ở mức 998,50 cent/bushel, giảm 6,75 cent so với mức cao nhất và tăng 1,25 cent so với mức thấp nhất. Giá kỳ hạn tháng 03/2025 chốt phiên tăng 9,50 cent, ở mức 1008,75 cent/bushel, tăng 9,50 cent so với mức thấp nhất và giảm 6,75 cent so với mức cao nhất.
Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 12 chốt phiên tăng 2,60 usd, ở mức 289,60 usd/short tấn, giảm 0,50 usd so mức cao nhất và tăng 4,30 usd so với mức thấp nhất.
Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 12 chốt phiên tăng 0,91 cent, ở mức 45,35 cent/pound, giảm 0,95 cent so với mức cao nhất và tăng 0,88 cent so với mức thấp nhất.
Trong tuần kết thúc vào ngày 07/11, lượng xuất khẩu đậu nành tăng 57,2 triệu giạ (1.555.400 tấn) trong giai đoạn 2024-2025 và không tăng trong giai đoạn 2025-2026. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 86 triệu giạ, cao hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 1,825 tỷ giạ của Bộ NN Mỹ trong năm 2024-2025. Cam kết xuất khẩu đậu nành hiện đạt tổng cộng 1,097 tỷ giạ trong giai đoạn 2024-2025 và tăng 6% so với một năm trước.
Lượng xuất khẩu khô dầu đậu nành hàng tuần được báo cáo ở mức 302.400 tấn và dầu đậu nành ở mức 16.500 tấn cho năm tiếp thị 2024-2025.
Trước báo cáo ép dầu tháng 10 của NOPA, các nhà giao dịch ước tính ở mức 196,84 triệu giạ, và là mức ép dầu cao nhất trong một tháng. Tồn trữ dầu đậu nành ước đạt 1,09 tỷ pound tính đến ngày 31/10.
CONAB ước tính sản lượng đậu nành của Brazil tăng nhẹ 0,09 triệu tấn, lên mức 166,14 triệu tấn.
Bắp
Trong tuần kết thúc vào ngày 07/11, lượng xuất khẩu bắp tăng 51,8 triệu giạ (1.315.100 tấn) trong giai đoạn 2024-2025 và không tăng trong giai đoạn 2025-2026. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 27,5 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 2,325 tỷ giạ của Bộ NN Mỹ trong năm 2024-2025. Cam kết bán khẩu bắp hiện đạt tổng cộng 1,177 tỷ giạ trong giai đoạn 2024-2025 và tăng 42% so với một năm trước.
Sản lượng ethanol ở mức 1,113 triệu thùng/ngày trong tuần ngày 08/11, tăng 8.000 thùng/ngày so với tuần trước và là mức kỷ lục mọi thời đại. Mặc dù sản lượng được cải thiện nhưng tồn trữ chỉ tăng 19.000 thùng lên 22,039 triệu thùng. Xuất khẩu tăng 35.000 thùng/ngày, ở mức 144.000 thùng/ngày.
CONAB tăng ước tính sản lượng vụ bắp của Brazil niên vụ 2024/2025 thêm 0,07 triệu tấn, lên 119,81 triệu tấn.
Lúa mì
Trong tuần kết thúc vào ngày 07/11, lượng xuất khẩu lúa mì tăng 14 triệu giạ (380.100 tấn) trong giai đoạn 2024-2025 và không tăng trong giai đoạn 2025-2026. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 11,1 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 825 triệu giạ của Bộ NN Mỹ trong năm 2024-2025. Cam kết xuất khẩu lúa mì hiện đạt tổng cộng 524 triệu giạ trong giai đoạn 2024-2025 và tăng 20% so với một năm trước.
Vụ lúa mì ở Mỹ sẽ tiếp tục thuận lợi với dự báo ẩm ướt hơn, với lượng mưa từ 25-76 mm ở Texas, Oklahoma, Kansas và Nebraska trong vài tuần tới. Tỷ lệ vụ lúa mì ở tình trạng hạn hán đã giảm xuống chỉ còn 43%, so với mức 57% của tuần trước.
Lúa mì Úc đã được thu hoạch khoảng 20% và ước tính sản lượng tăng lên từ 29 triệu tấn đến 35 triệu tấn, so với chỉ 26 triệu tấn một năm trước.