Giá đậu nành kỳ hạn tháng 03 chốt phiên giao dịch ngày 19/1 giảm 0,25 cent, ở mức 1.213,25 cent/bushel, giảm 13,75 cent so với mức cao nhất và tăng 2,50 cent so với mức thấp nhất. Giá đậu nành kỳ hạn tháng 05 chốt phiên giảm 1,25 cent, ở mức 1.223 cent/bushel, tăng 2,25 cent so với mức thấp nhất và giảm 13,75 cent so với mức cao nhất.
Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 03 chốt phiên giảm 4,80 usd, ở mức 356,50 usd/short tấn, giảm 9,20 usd so mức cao nhất và tăng 0,50 usd so với mức thấp nhất.
Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 03 chốt phiên giảm 0,72 cent, ở mức 46,90 cent/pound, giảm 1,22 cent so với mức cao nhất và tăng 0,14 cent so với mức thấp nhất.
Bộ NN Mỹ cho biết các nhà xuất khẩu tư nhân đã xuất bán 297.000 tấn đậu nành cho Trung Quốc, giao hàng trong năm tiếp thị 2023/2024.
Trong tuần kết thúc vào ngày 11/1, lượng xuất khẩu đậu nành tăng 28,7 triệu giạ (781.300 tấn) cho năm 2023-2024 và tăng 0,1 triệu giạ (1.700 tấn) cho năm 2024-2025. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 61,4 triệu giạ, cao hơn nhiều so với mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 1,755 tỷ giạ (47,76 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu đậu nành hiện đạt tổng cộng 1,374 tỷ giạ (37,39 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và giảm 18% so với một năm trước.
Lượng xuất khẩu khô dầu đậu nành hàng tuần được báo cáo ở mức 349.200 tấn cho năm tiếp thị 2023-2024 và 1.700 tấn cho năm tiếp thị 2024-2025.
Lượng xuất khẩu dầu đậu nành hàng tuần chỉ đạt 100 tấn trong năm tiếp thị 2023-2024.
Ước tính sản lượng vụ mùa đậu nành mới nhất của Brazil từ Agroconsult là 153,8 triệu tấn và từ Deral là dưới 150 triệu tấn.
Tình trạng chất lượng mùa vụ đậu nành của Argentina hiện được đánh giá ở mức cao 55% từ tốt đến xuất sắc, so với mức chỉ 4% từ tốt đến xuất sắc một năm trước. Khoảng 36% diện tích đậu nành đang ở giai đoạn ra hoa và 97% diện tích hiện đã được gieo trồng.
Bắp
Trong tuần kết thúc vào ngày 11/1, lượng xuất khẩu bắp tăng 49,3 triệu giạ (1.251.100 tấn) cho năm 2023-2024 và tăng 0,8 triệu giạ (20.000 tấn) cho năm 2024-2025. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 39,4 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 2,1 tỷ giạ (53,34 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu bắp hiện đạt tổng cộng 1,241 tỷ giạ (31,52 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và tăng 36% so với một năm trước.
Sản lượng ethanol trong tuần kết thúc vào ngày 12/1 giảm 8.000 thùng/ngày xuống 1,054 triệu thùng/ngày. Tuy nhiên đây vẫn là mức tăng thứ 17 liên tiếp trong tuần. Nguồn cung ethanol tăng 1,324 triệu thùng lên 25,695 triệu thùng, và mức tồn trữ đang là lớn nhất kể từ tháng 3 năm ngoái.
Mưa đã quay trở lại miền Trung Brazil vào cuối tuần và hầu hết trong tuần tới. Ở Argentina, thời tiết trở nên khô nóng hơn nhưng điều kiện mùa vụ hiện vẫn rất thuận lợi với 46% diện tích trồng bắp hiện được đánh giá từ tốt đến xuất sắc – tăng 10 điểm phần trăm so với tuần trước và so với chỉ 5% từ tốt đến xuất sắc cùng kỳ năm trước.
Lúa mì
Giá lúa mì tăng nhẹ sau một đợt mua kỹ thuật vào cuối tuần.
Trong tuần kết thúc vào ngày 11/1, lượng xuất khẩu lúa mì tăng 26 triệu giạ (707.600 tấn) cho năm 2023-2024. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 9 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 725 triệu giạ (19,73 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu lúa mì hiện đạt tổng cộng 592 triệu giạ (16,11 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và giảm 4% so với một năm trước.
Ở Mỹ, hiện tượng xoáy cực dự kiến sẽ kéo dài trong hai ngày trước khi thời tiết ấm lên vào tuần tới, gây ra một số thiệt hại đối với lúa mì, nhưng phần lớn vành đai lúa mì vụ Đông đang có tuyết phủ.
GASC của Ai Cập đã thầu mua 360.000 tấn lúa mì, trong đó có ít nhất một lô hàng từ Pháp. Nhật Bản cũng đã thầu mua 87.641 tấn lúa mì, trong đó mua từ Mỹ là 62.121 tấn. Lebanon đã mua 72.000 tấn lúa mì Ukraine.
Nguồn: CBOT